Một số giải pháp phát triển Dược liệu và sản phẩm từ Dược liệu tại Việt Nam
[29/06/2010 09:46:00]

ThS. Nguyễn Huy Văn

Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Traphaco

Thế kỉ 21 là thế kỉ sinh học và công nghệ sinh học. Dược liệu là tài nguyên di truyền - tài nguyên tái tạo. Nắm được, phát huy được tài nguyên di truyền là nắm kinh tế, nắm tương lai. Dùng thế mạnh dược liệu đẩy mạnh công nghiệp dược trở thành ngành kinh tế kỹ thuật mũi nhọn, làm cho nhân dân ta có đủ thuốc tốt, khỏe mạnh và giàu có, đất nước ta kinh tế - xã hội phát triển, tạo nên hình ảnh Việt Nam - một cường quốc về dược liệu đó là ý nguyện của Dân tộc.

1. Sự cần thiết phát triển dược liệu và sản phẩm từ dược liệu tại Việt Nam

Thứ nhất, Đất n­ước ta, với một vị trí tự nhiên hiếm có, một mặt gắn liền với lục địa, mặt khác lại thông với đại d­ương và nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa, khí hậu có nhiều nét độc đáo và đa dạng, thay đổi từ điều kiện khí hậu nhiệt đới điển hình ở vùng núi thấp phía Nam, đến khí hậu mang tính chất Á - nhiệt đới vùng núi cao ở các tỉnh phía Bắc. Điều kiện tự nhiên đó đã thực sự ­ưu đãi cho đất n­ước và con ng­ười Việt Nam một hệ sinh thái phong phú và đa dạng, một tiềm năng to lớn về tài nguyên cây thuốc nói riêng và tài nguyên d­ược liệu nói chung.

Theo kết quả điều tra khảo sát của các nhà nghiên cứu khoa học đa ngành khác nhau cho biết, Việt Nam có đ­ược sự giầu có về đa dạng sinh học bao gồm 275 loài có vú, 800 loài chim, 180 loài bò sát, 80 loài vừa ở cạn vừa ở n­­ước, 2.500 loài cá, 5.500 loài côn trùng. Việt Nam có khoảng 12.000 loài thực vật bậc cao có mạch (đã xác định tên của 8.000 loài), 600 loài nấm, 800 loài rêu và hàng trăm các loài tảo lớn. Trong đó có tới gần 4.000 loài thực vật bậc cao và bậc thấp đ­ược dùng làm thuốc, chúng đ­ược phân bố rộng khắp cả n­ước. Với chiều dài hơn 3.260 km bờ biển, có nguồn tài nguyên sinh vật biển nhiệt đới rất phong phú đa dạng về số lượng, giàu về hàm l­ượng. Môi tr­ường biển là cái kho ngoại hạng cung cấp các hoạt chất thiên nhiên có hoạt tính sinh học cao, mà nhiều chất cho thấy những đặc điểm cấu trúc ch­ưa hề gặp ở các hợp chất thiên nhiên trên cạn.

Thứ hai, Việt Nam có một nền y học dân tộc lâu đời với các tri thức sử dụng các loại dược liệu, các bài thuốc có giá trị dùng để chữa các bệnh thông thường và nan y. Nền y học cổ truyền độc đáo đó bảo vệ sức khỏe cho dân tộc ta suốt chiều dài lịch sử với phương châm "Nam dược trị nam nhân", nếu chúng ta biết phát huy thì có thể nói có một nền tảng vững chắc để phát triển.

Thứ ba, hiện nay không chỉ Việt Nam mà trên thế giới, với xu hướng "Trở về thiên nhiên" thì việc sử dụng các thuốc từ dược liệu của người dân ngày càng gia tăng, ít có những tác động có hại và phù hợp với qui luật sinh lý của cơ thể hơn. Theo tổ chức y tế thế giới (WHO), khoảng 80% dân số hiện nay trên thế giới vẫn dựa vào thuốc có nguồn gốc tự nhiên trong chăm sóc sức khoẻ cộng đồng (Akérelé). Trong tuyên ngôn Alma Alta năm 1978 và "Hướng dẫn đánh giá y học cổ truyền" năm 1991, WHO luôn khuyến nghị dùng các thuốc cổ truyền vào chăm sóc sức khoẻ ban đầu, đánh giá mức độ an toàn và hiệu quả cũng như bảo đảm nguồn cung cấp những thuốc này.

Thứ tư, dược liệu nói chung, cây thuốc nói riêng có giá trị kinh tế to lớn hơn bất kỳ cây lương thực, thực phẩm nào (Có thể thu nhận  trên 100 triệu đồng/ha). Trong mấy thập niên qua, hàng chục ngàn tấn dược liệu đã được khai thác tự nhiên và trồng trọt hàng năm, đem lại lợi nhuận lớn. Cây thuốc được phát triển có thể giúp cho nhiều vùng nông thôn, miền núi xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, bảo vệ môi trường.

Thứ năm, dược liệu nói chung, cây thuốc nói riêng tồn tại cùng với thế hệ sinh thái rừng, nông nghiệp và nông thôn, lại có mối tương quan chặt chẽ giữa đa dạng sinh học cây thuốc và đa dạng văn hóa, y học cổ truyền, gắn với tri thức y dược học của 54 dân tộc, là bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam.

 Thế kỉ 21 là thế kỉ sinh học và công nghệ sinh học. Dược liệu là tài nguyên di truyền - tài nguyên tái tạo. Nắm được, phát huy được tài nguyên di truyền là nắm kinh tế, nắm tương lai. Dùng thế mạnh dược liệu đẩy mạnh công nghiệp dược trở thành ngành kinh tế kỹ thuật mũi nhọn, làm cho nhân dân ta có đủ thuốc tốt, khỏe mạnh và giàu có, đất nước ta kinh tế - xã hội phát triển, tạo nên hình ảnh Việt Nam - một cường quốc về dược liệu đó là ý nguyện của Dân tộc.

2. Thực trạng phát triển dược liệu và sản phẩm từ dược liệu tại Việt Nam:

          Những năm qua chúng ta đã đạt được nhiều thành công trong công tác phát triển, bảo tồn, khai thác sử dụng dược liệu chăm sóc bảo vệ sực khỏe, tuy nhiên còn nhiều bất cập trong nghiên cứu, quản lý khai thác và phát triển dược liệu.

      2.1.  Khai thác tràn lan, không chú ý tái tạo bảo tồn

 Lợi ích nhiều mặt thu đ­ược từ nguồn tài nguyên cây thuốc Việt Nam thực sự là lớn lao. Song thực trạng hiện nay do con ng­ười đang gây ra là một thảm hoạ, nạn phá rừng tràn lan, khai thác dư­ợc liệu bừa bãi, ch­ưa có kế hoạch tái sinh phát triển, nhiều loài cây thuốc mọc tự nhiên cho nhiều loại d­ược liệu quý trong rừng bị phá huỷ đã và đang làm cho vốn quý đa dạng sinh học cây thuốc ngày càng bị cạn kiệt.

Mặt khác nguồn tài nguyên cây thuốc của chúng ta bị một số nhà khoa học và công ty n­ước ngoài lợi dụng khai thác các nguồn gen quý hiếm đư­a về nư­ớc hay bị khai thác trao bán cho các nư­ớc khác để kiếm lời. Tình trạng chảy máu tài nguyên dược liệu cự kỳ trầm trọng đối với các dược liệu hoang dại ở các tỉnh biên giới.

Để đánh giá chung về hiện trạng nguồn cây thuốc tự nhiên của Việt Nam, chúng ta có thể nêu lên một số nhận xét:

- Do khai thác tài nguyên kéo dài cộng với nhiều nguyên nhân tác động khác, nguồn cây thuốc tự nhiên nói chung đều đã bị suy giảm, nhất là các cây thuốc có giá trị sử dụng phổ biến. Trước kia một số d­ược liệu có thể khai thác hàng chục ngàn tấn/năm ở Việt Nam ví dụ nh­ư: Ba kích, Đảng sâm, Hoàng tinh... thì thực tế hiện nay các cây thuốc này đã đ­ược đư­a vào sách đỏ vì có nguy cơ bị tuyệt chủng. Nghiêm trọng hơn là đối với một số cây thuốc vốn đ­ược coi là quý ở Việt Nam, do bị tìm kiếm không ngừng hoặc vô tình bị tàn phá hiện đang đứng tr­ước nguy cơ bị cạn kiệt ở các mức độ khác nhau nh­ư:  Hoàng liên đặc trư­ng của dãy núi  Hoàng Liên Sơn  nay chỉ tìm thấy dạng dấu tích .

- Vào đầu thế kỷ này, Việt Nam có khoảng 60% diện tích đ­ược rừng che phủ, giờ đây đã giảm xuống còn 20%, trong đó chỉ có 3% hoặc ít hơn rừng nhiệt đới là chư­a bị xâm phạm. Rõ ràng là cần phải có hành động kịp thời để bảo vệ nguồn đa dạng sinh học còn lại và vẫn đ­ược coi là t­ương đối phong phú.

- Vai trò của cây thuốc trong việc chăm sóc sức khoẻ cộng đồng và đem lại lợi ích kinh tế to lớn cho ng­ười dân là điều không thể phủ nhận, như­ng việc sử dụng nguồn nguyên liệu này hiện nay có rất nhiều vấn đề báo động. Theo ­ước tính, nguyên liệu làm thuốc có nguồn gốc thảo mộc đ­ược sử dụng hàng năm tại cộng đồng, tại các cơ sở y tế, phòng khám đông y, sản xuất và kinh doanh ...khoảng 50.000 tấn/năm thì 1/3 nguyên liệu do thu hái và khai thác tự nhiên, 1/3 do trồng trọt và còn lại do nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc , Đài Loan , Hồng Công. Thực trạng của nguyên liệu này hiện nay : (i) Đối với nguyên liệu tự nhiên, mọc hoang dại vấn đề khai thác quá mức, không có sự kiểm soát của các cấp các ngành đã làm cho không phát triển và bảo tồn bền vững đư­ợc. (ii) Đối với nguồn nguyên liệu đ­ược trồng trọt tại các khu vực, làng nghề truyền thống như­ Thanh Trì, Ninh Hiệp (Gia Lâm), Nghĩa Trai (H­ưng Yên), Lục Yên (Yên Bái), Trà My (Quảng Nam), Núi Mẫu Sơn (Lạng Sơn), Sa Pa (Lào Cai) , Sìn Hồ (Lai Châu) ,  Đà Lạt (Lâm Đồng)... do không có kế hoạch điều tiết nên việc trồng trọt biến thiên tăng, giảm thất th­ường theo cơ chế thị tr­ường, có khi đột biến về giá cả tăng gấp hai, ba chục lần vì trồng ít mà nhu cầu sử dụng và xuất khẩu tăng dẫn đến việc t­ư thương làm hàng giả để chạy theo lợi nhuận, dẫn đến chất lư­ợng d­ược liệu giảm và không an toàn cho ng­ười sử dụng, hay có khi bị mất mối nhập khẩu nguyên liệu (ví dụ như:­ Quế, Sả) thì ngư­ời dân lại phá đi một diện tích lớn cây thuốc đã đựơc trồng lâu đời vì ế không có ai mua. (iii) Đối với d­ược liệu nhập từ Trung Quốc hay còn gọi là thuốc bắc thì tình hình còn tồi tệ hơn. Dường như­ việc nhập các vị thuốc bắc qua biên giới Trung Quốc và Việt Nam, Nhà nư­ớc chỉ coi là một loại hàng hóa bình th­ường như­ đồ gia dụng, chứ không tính đến đó là một sản phẩm đặc biệt, đó là thuốc ảnh hưởng đến tính mệnh của con ng­ười. Theo đánh giá của các nhà kiểm nghiệm d­ược liệu thì trên thị tr­ường thuốc đông d­ược (nguyên liệu thô) hiện nay có rất nhiều vị dư­ợc liệu chỉ là hàng trung phẩm hay thứ phẩm của Trung Quốc đ­ược bán sang Việt Nam và do thiếu nguyên liệu nên rất nhiều d­ược liệu bị dùng thay thế bởi các nguyên liệu rẻ tiền hơn, chất l­ượng kém hơn. Ví dụ như­ vị Hoài sơn, d­ược liệu là rễ của cây củ mài như­ng hiện nay trên thị trư­ờng chỉ có củ cọc, củ mỡ đ­ược bán dư­ới tên là Hoài sơn. Hay vị thuốc Đan sâm, nếu mua ở phố Lãn Ông các thời kỳ khác nhau thì nguyên liệu hoàn toàn khác nhau, có những đợt nguyên liệu đư­ợc nhuộm màu đỏ để có màu nâu đỏ tự nhiên của vị Đan sâm, như­ng khi dùng rửa n­ước thì màu đỏ này thôi ra và dược liệu không có vỏ màu đỏ nữa ...

Chúng tôi xin đ­ược l­ược trích ra đây một số vấn đề về chất l­ượng d­ược liệu hiện nay, nó cũng ở mức báo động không kém vấn đề ngộ độc thực phẩm xảy ra ồ ạt trong những năm gần đây.

2.2. Sử dụng dược liệu dược tính mạnh và độc tính cao

Chắc hẳn rất nhiều ng­ười còn nhớ câu chuyện về vị thuốc Phụ tử và Mã tiền đã xảy ra ở Việt Nam nhiều năm trước gây ra cái chết rất thương tâm của 1 ng­ười chế biến thuốc và 1 l­ương y. T­ương tự cũng như­ trư­ờng hợp Mã tiền, một vị dư­ợc liệu chứa alcaloid Strychnin, có d­ược tính mạnh và độc tính cao, muốn dùng vị d­ược liệu này cũng phải chế biến và quy trình chế biến cũng nhằm giảm hàm l­ượng Strychnin trong hạt Mã tiền. Đa số những l­ương y sử dụng các vị d­ược liệu có chứa alcaloid (độc tính cao) theo ph­ương pháp đông y th­ường không biết rằng alcaloid trong các bộ phận của cây có quy luật biến động hàm l­ượng đặc biệt, nó thay đổi theo mùa, thay đổi theo quá trình sinh tr­ưởng. Do đó thu hái các mùa khác nhau thì hàm lư­ợng alcaloid khác nhau.

Trong những năm qua việc thu hái d­ược liệu nhầm lẫn dẫn đến những cái chết th­ương tâm xảy ra rất nhiều ở Việt Nam, ví dụ như­ việc thu hái nhầm dây đau x­ương trong bài thuốc bổ gân cốt với dây của cây lá ngón đã làm cho bị thiệt mạng. Trẻ em ở các huyện Đại Từ, Đồng Hỷ, Phổ Yên (Thái Nguyên) ăn quả rừng (quả của cây móc gai hay móc hùm Capparis versicolor họ Màn màn) có chứa glycosid tim bị ngộ độc chết. Hay đơn giản hơn nhiều là việc ng­ười dân tự dùng hạt bí, hạt cau để tẩy sán dải, như­ng một số ng­ười không biết đã uống n­ước hạt cau quá nhiều (dùng 2 chén hạt cau khoảng 300 gam) vì cho rằng ông bà ta nhai trầu cau có thấy bị làm sao đâu, để tẩy sán nh­ưng do quá liều nên bị truỵ tim mạch, chết. Do đó nên nhớ rằng không có ranh giới giữa thức ăn, thuốc và chất độc. Sự khác biệt giữa chúng chỉ ở liều l­ượng và cách dùng.

Một số cây vẫn đ­ược dùng thư­ờng xuyên trong các toa thuốc như­ng gần đây mới phát hiện đ­ược độc tính như­ cây Vòi voi, có chứa alcaloid pyrrolizidin (AP) vẫn có mặt trong các toa thuốc điều trị phong thấp, đau nhức, mụn nhọt. Ng­ười ta tình cờ phát hiện độc tính khi theo dõi tình trạng chết hàng loạt cừu ở Australia vì ăn một loại lá có chứa AP. Kết quả nghiên cứu cho thấy AP gây huỷ hoại tế bào gan, có thể gây ung thư gan.

Gần đây nhất là thông tin cây Phòng kỷ (Aristolochia fangchi) có mặt trong thành phần bài thuốc đông y giảm cân, đ­ược ghi nhận có độc tính trên thận, có thể gây ung thư do acid aristocholic có trong cây là dẫn xuất có liên quan đến cấu trúc nitrophenanthrene là chất có tính gây đột biến cho vi khuẩn và gây ung thư cho động vật thí nghiệm.

2.3. D­ược liệu mốc, kém chất lượng

Ở Việt Nam với khí hậu nóng, ẩm và mư­a nhiều làm cho hàm lư­ợng nước trong không khí cao, cộng với d­ược liệu phần lớn có nguồn gốc thực vật (lá, thân, rễ, hoa, quả, hạt,...), nguồn gốc động vật (x­ương, da thịt, mật,...) và một số từ khoáng vật rất dễ hút ẩm và là thành phần dinh dưỡng thích hợp cho vi khuẩn, nấm mốc, côn trùng phát triển. Theo thống kê tỷ lệ số d­ược liệu bị mốc mọt 15-20%, tỷ lệ khối l­ượng d­ược liệu bị mốc 12-28%. Nấm mốc làm giảm chất lư­ợng dư­ợc liệu, tiết men phân huỷ hoạt chất trong dư­ợc liệu, tiết các độc tố (mycotoxin) đặc biệt là các aflatoxin trong dư­ợc liệu. Nấm mốc và độc tố nấm gây bệnh nấm (viêm giác mạc, viêm màng trong tim,...), gây bệnh dị ứng do tiếp xúc bào tử nấm, gây bệnh độc tố nấm do ăn, uống phải mycotoxin (ngộ độc, nhiễm độc, tổn th­ương gan,  ung thư­ gan). Những loại độc tố trong nấm nh­ư trên không bị diệt ở nhiệt độ cao (160 - 170 oC) do đó nếu trong trường hợp nấu chín thì độc tố aflatoxin vẫn tồn tại mà không bị phân huỷ.

Nếu độ ẩm môi tr­ường quá thấp, n­ước sẽ kết tinh trong nguyên liệu có thể làm thuỷ phân các thành phần  và chất l­ượng d­ược liệu giảm và sẽ thay đổi tính chất.

2.4. Dư­ phẩm kim loại nặng và thuốc trừ sâu trong d­ược liệu

Cho đến nay tiêu chuẩn kiểm nghiệm d­ư phẩm thuốc trừ sâu trong d­ược liệu vẫn chư­a đ­ược coi trọng, chư­a đ­ược xem nh­ư là một tiêu chí để kiểm soát chất l­ượng nguyên liệu làm thuốc có nguồn gốc thảo mộc. Mặc dù theo khuyến cáo của tổ chức y tế thế giới (WHO) về tiêu chuẩn kiểm nghiệm chất lượng d­ược liệu thì vấn đề dư­ phẩm thuốc trừ sâu là rất quan trọng. Bởi vì trong cuộc sống hiện nay để có năng suất cao ng­ười dân đã sử dụng rất nhiều phân hóa học và nhiều hóa chất trừ sâu hay còn gọi là thuốc bảo vệ thực vật. Vấn đề ngộ độc do kim loại nặng cũng rất đáng chú ý. Đã có một số ca ngộ độc chì liên quan đến sử dụng chế phẩm đông dư­ợc mà thành phần chì không thấy ghi trong công thức các chế phẩm này. Nhà sản xuất không thừa nhận nguồn chì trong chế phẩm, do đó nguồn chì có thể từ nguồn phẩm màu dùng để bọc viên, hay trong quá trình sơ chế d­ược liệu đã dùng chì để đánh bóng (ví dụ nh­ư tr­ường hợp một số cửa hàng đông d­ược đã dùng chì để đánh đen bóng Tam thất chẳng hạn). Ngộ độc thuỷ ngân, asenic trong các nguyên liệu làm thuốc đông y có một số d­ược chất chứa thuỷ ngân như­ Chu sa, Kinh phấn, Thăng d­ược và chứa Asenic nh­ư Hùng hoàng, Thạch tín, Thư hoàng, Dự thạch vẫn còn đ­ược sử dụng trong các chế phẩm đông d­ược (các chế phẩm đ­ược lưu hành nhiều ở Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông), đã có nhiều ca ngộ độc thuỷ ngân và asenic phải nhập viện vì các chế phẩm này chứa một lượng thuỷ ngân, asenic gấp 300 - 500 lần Bộ Y tế cho phép.

2.5. Quá trình chế biến d­ược liệu và bảo quản dược liệu

Đối với d­ược liệu quá trình chế biến nguyên liệu là rất quan trọng. D­ược liệu có bộ phận dùng là rễ, củ rất nhiều nên quá trình sơ chế của dư­ợc liệu rất quan trọng cho việc bảo quản dư­ợc liệu sau đó. Hàng năm ở các làng nghề (Nghĩa Trai , Ninh Hiệp, ...) trồng một lư­ợng lớn Cúc hoa. Hoa cúc đ­ược thu hái vào cuối tháng 12 và tháng 1, thời gian này ở miền Bắc rất ít nắng, trời âm u nên Cúc hoa đ­ược xông sinh vừa để bảo quản d­ược liệu khỏi nấm mốc, sâu bọ vừa làm đẹp, sáng sản phẩm. Tất nhiên việc sơ chế và bảo quản d­ược liệu bằng ph­ương pháp xông sinh là một phương pháp cổ điển lâu đời nh­ưng hàm l­ượng lư­u huỳnh bao nhiêu là đủ, bao nhiêu thì an toàn cho ng­ười sử dụng ?

Trong những năm gần đây nếu các bạn mua Ngưu tất trên thị trư­ờng thuốc đông d­ược, các bạn sẽ mua đư­ợc một sản phẩm là rễ có màu trắng và rất dẻo (chứ không phải là màu hồng như­ tr­ước đây nữa) bởi vì ng­ưu tất sau khi thu hái đã đư­ợc chất thành đống và xông sinh ngay chứ không đư­ợc phơi khô, họ cứ chất đống nh­ư vậy và thỉnh thoảng lại xông sinh, khi nào cần bán mới dỡ ra. Do đó nếu các bạn để ý các thang thuốc đông y bây giờ khi sắc để uống có mùi lư­u huỳnh rất đậm.

Hay một ví dụ khác về việc sử dụng các phương pháp để chống nấm, mốc của d­ược liệu, đó là vị Nhục thung dung. Tr­ước đây, vị d­ược liệu này rất khó bảo quản bởi nó luôn bị mốc. Do đặc tính của vị d­ược liệu này là thể nấm, hàm l­ượng n­ước lớn nên dư­ợc liệu luôn bị mốc. Như­ng 2 - 3 năm gần đây, vị dư­ợc liệu để cả năm cũng không mốc. Vậy họ đã dùng hóa chất gì, ph­ương pháp gì để bảo quản. Chư­a đ­ược kiểm chứng nh­ưng có ngư­ời đã mách rằng họ dùng Sulfua kẽm để quét lên bề mặt của d­ược liệu. Mà sulfua kẽm thì rất độc.

2.6. Quản lý dược liệu và sản phẩm có nguồn gốc d­ược liệu

Những vấn đề còn tồn tại trong sử dụng và phát triển dược liệu đã được nêu ra ở trên xuất phát từ những điều bất cập trong quản lý thu hái, trồng, phát triển, bảo tồn dược liệu và có thêm nguyên nhân từ sự thiếu hiểu biết và thiếu ý thức của người dân trong các hoạt động liên quan đến dược liệu:

*  Đối với dược liệu trong nước:

- Việc trồng cây thuốc nói riêng và sản xuất dược liệu nói chung mới có quy hoạch vùng trồng hạn chế cho khoảng 30 loại dược liệu và chưa thực sự triển khai. Tuy thế, quy hoạch trồng cũng bị gặp khó khăn do sự không thống nhất giữa điều tra tài nguyên dược liệu (theo địa lý hành chính) với phân bố và phát triển cuả cây thuốc (theo vùng sinh thái). Cây thuốc được trồng tự phát, phương pháp canh tác truyền thống chưa thực hiện theo hướng dẫn GACP-WHO do đó sản lượng và chất lượng không ổn định, ảnh hưởng đến sản xuất công nghiệp, chất lượng thành phẩm không ổn định.

- Khai thác dược liệu chưa có tổ chức, không có kế hoạch, không có hướng dẫn khai thác gắn với bảo tồn, phát triển bền vững, dẫn đến một số loài cây thuốc có nguy cơ cạn kiệt hoặc tiệt chủng (Bảy lá một hoa, Ba kích, Hà thủ ô đỏ...).

- Chất lượng dược liệu chưa được kiểm soát chặt chẽ từ khâu chọn giống, nuôi trồng đến thu hái, chế biến, bảo quản.

- Đa số chưa có được sự hợp tác tốt giữa doanh nghiệp, nhà khoa học, người nông dân và  Nhà nước (4 nhà) trong suốt quá trình sản xuất dược liệu: sản xuất giống, nuôi trồng, thu hái, chế biến, bảo quản. Chỉ một vài cơ sở có tổ chức thành công mô hình hợp tác 4 nhà trong sản xuất và phát triển một số dược liệu. Mặt khác, mối quan hệ quản lý giữa ngành với ngành (Công nghiệp, Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Dược, Y...) với quản lý lãnh thổ chưa thỏa đáng, chưa có sự tập trung và phối hợp đa ngành, Trung ương và địa phương, cơ quan quản lý, cơ quan hoặc tổ chức khoa học.

* Đối với dược liệu nhập khẩu:

- Chủ yếu nhập không chính thức qua con đường tiểu ngạch, không rõ nguồn gốc, có hiện tượng nhầm lẫn về nguồn gốc dược liệu, nhầm trong phân loại, nhầm cây thuốc, nhầm vị thuốc.

- Chất lượng không được kiểm soát và cũng chưa kiểm soát được. Có tình trạng dược liệu chất lượng kém không tiêu thụ được ở Trung Quốc được đưa sang Việt Nam tiêu thụ.

- Hệ thống cung ứng dược liệu nhỏ lẻ nên gặp khó khăn cho cơ sở sử dụng dược liệu khi có nhu cầu lớn về số lượng và yêu cầu đồng đều về chất lượng.

* Đối với công tác bảo tồn dược liệu:

- Khung pháp lý cho công tác bảo tồn chưa được đồng bộ. Nhiều luật, chủ trương, chính sách chưa được cụ thể hoá dẫn đến lúng túng trong triển khai do hiện tượng chồng chéo.

- Nguồn lực về tài chính còn hạn hẹp so với tiềm năng và tầm quan trọng của công tác bảo tồn.

- Hiện tại, công tác bảo tồn mới chú trọng đến bảo tồn nguồn gen, chưa chú trọng đến phát triển và thương mại hoá các loài được bảo tồn.

Bằng thực tế và qua nhiều kênh thông tin, tất cả các cấp quản lý và lãnh đạo từ dưới các cơ sở, các công ty lên đến Nhà nước đều có thể nhìn thấy thực trạng còn nhiều vấn đề và những bất cập trong sản xuất và phát triển dược liệu, các Nhà quản lý Y tế từ qui mô trong nước ra đến toàn cầu đều thấy được những ích lợi và giá trị to lớn mà cây thuốc nói riêng, dược liệu nói chung có thể mang lại cho người dân, cho xã hội. Trên thế giới, song hành với xu hướng sử dụng thuốc và các sản phẩm từ dược liệu ngày càng tăng là những chính sách về sử dụng và phát triển dược liệu cũng như thuốc từ dược liệu

          3. Một số giải pháp phát triển dược liệu và sản phẩm từ dược liệu tại Việt Nam

Để phát triển dược liệu và sản phẩm từ dược liệu  cần triển khai đồng bộ và quyết liệt nhiều giải pháp như: Nhóm giải pháp hoạch định, tổ chức, quản lý; nhóm giải pháp về khoa học công nghệ; nhóm giải pháp về bảo tồn và phát triển bền vững; nhóm giải pháp về nhân lực, đào tạo;  nhóm giải pháp về thông tin và truyền thông. Được thự hiện thống nhất trong toàn ngành, liên ngành Y tế - Nông nghiệp & Nông thôn - Khoa học & Công nghệ, .... từ Trung ương  đến Địa phương. Tuy nhiên vì thời gian có hạn chúng giới thiệu một giải pháp mà Traphaco đã và đang triển khai thành công: Mô hình phối hợp bốn Nhà.

Traphaco đã thực hiện mô hình hợp tác giữa "4 nhà": Nhà nước - Nhà khoa học - Nhà Doanh nghiệp - Nhà nông trong bốn khâu của công nghiệp dược (Nghiên cứu - Phát triển - Sản xuất - Thị trường). Trong đó:

3.1. Nhà nước

Người quản lý ở mức độ vĩ mô, tạo cơ sở pháp lý điều chỉnh mọi hoạt động của công ty, các cá nhân hay các tổ chức. Ở cấp độ nhỏ hơn, đó là chính quyền địa phương các nơi Công ty CP Traphaco tổ chức hoạt động, là những người tạo điều kiện về kinh tế - chính trị - xã hội, phối hợp tổ chức hoạt động của công ty.

          Nhà nước cũng có thể là nhà đầu tư cho những dự án phát triển của công ty.

3.2. Nhà doanh nghiệp

CT CP Traphaco tổ chức hoạt động chung, chủ trì thực hiện trồng trọt, chế biến, sản xuất, kinh doanh. Trong phát triển vùng trồng, công ty quản lý trồng, thu hái dược liệu với quy mô lớn, giúp đỡ các điều kiện ban đầu, hỗ trợ về kỹ thuật, giống, vốn (nếu cần) cho người nông dân. Công ty đến với địa phương, với nhà nông bằng sự tín nhiệm và sự bảo đảm bao tiêu dược liệu. Hợp đồng với nông dân về sản xuất thu mua dược liệu dài hạn (5 năm hay 10 năm).

CT CP Traphaco trở thành đầu mối liên kết giữa các bộ, ngành khác nhau, phối hợp với các nhà khoa học và nhà nông tổ chức nghiên cứu sản xuất từ nguồn giống đến sản xuất dược liệu, dược phẩm và tiêu thụ sản phẩm để thực hiện sứ mạng chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, phát triển kinh tế, đưa thương hiệu dược liệu Việt Nam ra thị trường quốc tế.

Trong nghiên cứu, phát triển dược liệu và thuốc từ dược liệu, Traphaco đã thực hiện thành công:

- Hiện đại hoá thuốc Y học cổ truyền

- Khai thác tiềm năng tự nhiên

Mặt khác, công ty cũng phải đối đầu với những mối lo: Đầu tư phát triển, tạo vùng dược liệu có an toàn? Có mạo hiểm? Sản phẩm sáng tạo, nổi tiếng thường bị hàng nhái lấn chiếm thị trường, mất cắp bản quyền.

Cùng với công ty CP Traphaco, không thể thiếu các công ty dược khác, các công ty cung cấp nguyên vật liệu và trang thiết bị, các công ty hay đơn vị trung gian thu mua, phân phối, hợp tác hoạt động.

3.3. Nhà Khoa học

Những người được công ty mời làm chuyên gia tư vấn thông tin, tư vấn quản lý, hướng dẫn kỹ thuật về nông nghiệp, chế biến dược liệu, bào chế sản phẩm sản xuất theo công nghệ mới, chuyển giao đề tài khoa học. Họ là các chuyên viên cao cấp của các Viện, Trung tâm trồng và chế biến cây thuốc Hà Nội, giảng viên các trường , cao đẳng, đại học về Y, Dược, Kinh tế, Chính trị.

Công ty CP Traphaco đã hợp tác rộng rãi với các nhà khoa học, các tổ chức nghiên cứu nh­ư: Tr­ường đại học Dư­ợc Hà Nội, Học viện Quân Y, Đại học Y Hà Nội, các bệnh viện Bạch Mai, Hữu Nghị, Quân Y 108, Quân Y 103, Bệnh viện Y học cổ truyền trung ư­ơng, Viện Sốt rét ký sinh trùng côn trùng trung ­­ương, Viện Kiểm nghiệm trung ương, Viện D­ược liệu, Viện Hoá học công nghiệp, Viện Công nghệ sinh học, Viện Hoá học các hợp chất tự nhiên thuộc Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia.v.v...

Khi nhà khoa học đi cùng doanh nghiệp đến với nông thôn và nông dân, họ sẽ phát huy được tiềm lực của mình và có hiệu quả trực tiếp đối với phát triển dược liệu và sản phẩm từ dược liệu.

3.4. Nhà nông

Người trực tiếp trồng trọt, thu hái, khai thác dược liệu theo hướng dẫn của các chuyên gia. Những người góp phần không nhỏ trong việc ổn định nguồn dược liệu đầu vào của Công ty CP Traphaco.

Nói rộng hơn, Nhà nông bao gồm tất cả những người sở hữu nguồn tri thức tài nguyên cây thuốc, đang vận dụng nguồn tri thức đó hàng ngày trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cộng đồng, họ cũng là những người luôn có nhu cầu phát triển kinh tế từ cây thuốc bản địa.

       Với mô hình hợp tác như trên, Traphaco đã chủ động trong trồng trọt, khai thác, nhập khẩu gần 90% nhu cầu dược liệu phục vụ sản xuất; chủ động thu mua dược liệu của người nông dân (thông qua trung gian thu mua), có giám sát quá trình trồng trọt, thu hái. Công ty đã có vùng trồng rộng lớn và tiến hành nghiên cứu, trồng trọt bài bản một số dược liệu như Actiso, Đinh lăng, Cúc hoa,...ở Lào Cai, Nam Định, Hưng Yên,.... Công ty đảm bảo 100% dược liệu đầu vào đạt tiêu chuẩn chất lượng mới được sản xuất. Hiện nay, Traphaco đang từng bước áp dụng triển khai GACP trên thực tế (hiện tại đã thực hiện một số khâu trong GACP đối với các dược liệu chủ yếu).

Trong 4 năm gần đây, doanh thu của công ty là: Năm 2005 là 274 tỉ đồng ; Năm 2006: 371 tỉ đồng ; Năm 2007: 490 tỉ đồng; Năm 2008: 700 tỉ đồng; Năm 2009: dự kiến là 778 tỉ đồng. Tính từ năm 2005 đến năm 2008, tăng trưởng bình quân hàng năm của công ty trên 35%.

Traphaco đã được tôn vinh là "Thương hiệu nổi tiếng nhất ngành hàng Dược phẩm" trong Chương trình Gala tôn vinh Thương hiệu nổi tiếng nhất của từng ngành hàng Việt Nam (tối 15/08/2009).

Hiện tại, Traphaco đã được đăng ký bảo hộ ở trên 20 quốc gia, đã đăng ký bảo hộ quốc tế ở 10 nước (Lào, Campuchia, Australia, Thái Lan, Nhật Bản, Singapore, Indonesia, Mỹ, Trung Quốc, Malaysia) và sở hữu hàng chục bằng độc quyền giải pháp hữu ích, bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp và trên 200 nhãn hiệu hàng hóa.

4. Những đề xuất và kiến nghị

4.1. Những đề xuất và kiến nghị chung

Để phát triển toàn ngành cần phải đổi mới mạnh mẽ toàn diện từ: Nhận thức - Tổ chức - Quản lý - Đầu tư - Phát triển bền vững theo tinh thần "Hội nghị phát triển dược liệu và sản phẩm thuốc quốc gia" do PTT Chính phủ chủ trì ngày 30/5/2010.

a) Về nhận thức:

Với hàng ngàn loài cây thuốc, dược liệu là thế mạnh làm nền tảng để phát triển mạnh mẽ công nghiệp dược, công nghiệp hóa dược thành ngành kinh tế - kỹ thuật mũi nhọn, đảm bảo nhu cầu to lớn về thuốc chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ta và xuất khẩu. Do đó rất cần có tổ chức thích hợp, đổi mới quản lý, coi phát triển dược liệu và công nghiệp dược là một mặt trận kinh tế quan trọng, có sự chỉ đạo, đầu tư mạnh mẽ của Chính phủ. Không đầu tư chất xám, không quyết liệt chỉ đạo, lãnh đạo và tổ chức việc phát triển dược liệu có qui mô lớn và ổn định, bền vững, thì rất khó phát triển công nghiệp dược, công nghiệp hóa dược như mong muốn. Điều này dẫn đến: nước ta sẽ mãi mãi phụ thuộc vào thuốc từ nước ngoài, nguyên liệu dược của nước ngoài; công nghệ dược chỉ dừng ở gia công, bao gói; nền y học cổ truyền, bản sắc văn hóa y dược học cổ truyền sẽ ngày càng mai một.

b) Về tổ chức:

-   Tổ chức tốt việc khai thác, phát triển cây con làm thuốc cần phải quản lý, điều hành tốt hệ thống 4 khâu R-D-P-M (Nghiên cứu - Phát triển - Sản xuất - Thị trường) với sự phối hợp 4 nhà: Nhà nước - Nhà khoa học - Nhà nông - Nhà doanh nghiệp, cần thiết thành lập Cơ quan chuyên trách về Dược liệu Việt Nam.  

-   Ngành Nông lâm nghiệp đảm bảo việc quy hoạch, sản xuất, cung ứng dược liệu. Ngành Y tế lấy dược liệu làm nền tảng để phát triển công nghiệp dược (sản xuất dược phẩm, thuốc y học cổ truyền, thực phẩm chức năng, mỹ phẩm, màu thực phẩm,...) đáp ứng yêu cầu thuốc cho nhân dân ta và xuất khẩu. Hai ngành phối hợp về nghiên cứu KHKT, công nghệ sinh học, công nghệ trước và sau khi thu hoạch, đào tạo huấn luyện xây dựng đội ngũ cán bộ và kỹ thuật viên có trình độ cao, tổ chức quy hoạch và sản xuất, phối hợp bốn nhà, xây dựng các vùng dược liệu, nhà máy.

-   Thành lập các Viện cây thuốc và Trung tâm dược liệu, nghiên cứu chuyên sâu các loài cây thuốc về sinh học, nông học, di truyền và chọn giống, công nghệ sinh học, bảo tồn nguồn gen, hóa sinh học, thổ nhưỡng, dược học, khí hậu và môi trường sinh thái, thực vật dân tộc học, công nghệ trước và sau thu hoạch, v.v.. (Ta đã có các Viện ngô, Viện chè, Viện cà phê, Viện lúa, Viện rau,...Những năm 60, nước ta đã có Viện nghiên cứu Cây công nghiệp, Cây ăn quả và Cây làm thuốc, do GS. Vũ Công Hậu làm Viện trưởng. Các nước Nga, Ấn Độ,... đã có Viện cây thuốc cách đây nhiều năm...)

 Như vậy, cần tập hợp cán bộ hiện có trong cả nước, sắp xếp lại, đào tạo lại, đổi  mới tổ chức mạnh mẽ và đầu tư toàn diện để đưa Công nghiệp dược thành ngành kinh tế - kĩ thuật mũi nhọn phát triển kinh tế xã hội.

c) Về chính sách, cơ chế quản lý:

Các Chính sách, Nghị quyết, Nghị định của Nhà nước phải được thể chế hóa và đầu tư mạnh mẽ vào một chương trình quốc gia dài hạn với các hoạt động cụ thể, đồng bộ:

-   Đổi mới tổ chức và cán bộ;

-   Có các chính sách, chế độ cụ thể ưu đãi các doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà nông;

-   Đầu tư cơ sở vật chất và nguồn vốn vào các chương trình hành động, các cơ sở nghiên cứu khoa học, doanh nghiệp và công nghệ, đào tạo và huấn luyện, truyền thông và xuất bản,...Các doanh nghiệp có đủ điều kiện được thành lập Viện nghiên cứu và Trường đại học, trung học.

-   Chỉ đạo, đầu tư cho một số doanh nghiệp dược thí điểm xây dựng mô hình hợp tác bốn nhà để xây dựng vùng dược liệu, sản xuất thuốc từ nguyên liệu trong nước để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu;

d) Về vấn đề đầu tư phát triển bền vững

      Nhà nước đầu tư trực tiếp nguồn lực vào việc xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho công tác nghiên cứu, đào tạo và huấn luyện,  tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức, truyền thông và xuất bản, công nghệ, qui hoạch, xây dựng vùng trồng dược liệu; Đầu tư cho doanh nghiệp xây dựng mô hình hợp tác bốn nhà; Đầu tư theo cách cấp đất, cấp vốn không hoàn lại, cho vay dài hạn không lãi suất và miễn thuế,... tùy thuộc vào từng dự án cụ thể; Các hoạt động kết gắn chặt chẽ và lâu dài với địa phương, chính quyền địa phương đóng vai trò lớn tạo điều kiện hỗ trợ các dự án thành công.

      Nhà nước ta đã khẳng định dược liệu, cây thuốc có vai trò quan trọng trong việc chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân và góp phần đáng kể trong phát triển kinh tế xã hội. Từ dược liệu Việt Nam, hoàn toàn có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu thuốc, thực phẩm chức năng cho nhân dân ta và xuất khẩu.

4.2. Những đề xuất và kiến nghị cụ thể

- Cần tiếp tục điều tra đánh giá thực tế nguồn tài nguyên dược liệu Việt Nam để có sự hoạch định cho phát triển phù hợp.

- Sớm có cơ quan chuyên trách của Nhà nước « Cục Quản lý Dược liệu » để chỉ đạo, phối hợp  các Bộ, Ngành, Chính quyền các Tỉnh, Thành phố trong công tác dược liệu.

- Chính phủ chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ xây dựng và triền khai Chương trình quốc gia về phát triển dược liệu.

- Sửa Luật ưu đãi khuyến khích đầu các nhà máy sản xuất thuốc từ dược liệu.

- Ban hành quyết định cấm xuất khảu dược liệu hoang dại tránh nạn chảy máu tài nguyên rất trầm trọng hiện nay.

- Đưa chương trình đào tạo nuôi trồng, chế biến sau thu hoạch dược liệu vào các trường Nông Lâm nghiệp và Dược.

- Đẩy mạnh công tác ứng dụng công nghệ sinh học trong tạo giống, nuôi trồng, chế biến dược liệu.

Do đó "sắp xếp lại, đổi mới tổ chức, lấy dược liệu làm nền tảng đưa công nghiệp Dược thành ngành kinh tế kỹ thuật mũi nhọn" theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xã hội hóa là giải pháp cấp bách để tự lực, tự cường thuốc Việt Nam cho người Việt Nam, phát triển mạnh mẽ công nghiệp Dược giúp nhân dân ta khỏe mạnh, làm giàu, phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, đảm bảo an sinh xã hội.

Newsletter

Sign up to receive information periodically